2024/03/17

NGÀY XƯA CÓ MẸ - Nhạc Võ Tá Hân - Thơ Thanh Nguyên - Ca sĩ Bảo Yến & Khắ...


 NGÀY XƯA CÓ MẸ


Khi con biết đòi ăn

Mẹ là người mớm cho con muỗng cháo
Khi con biết đòi ngủ bằng tiết tấu
Mẹ là người thức hát ru con
Bầu trời trong mắt con ngày một xanh hơn
Là khi tóc mẹ ngày thêm sợi bạc
Mẹ đã thành hiển nhiên như Trời - Đất
Như cuộc đời không thể thiếu trong con
Nếu có đi vòng quả đất tròn
Người mong con mỏi mòn chắc không ai ngoài mẹ
Cái vòng tay mở ra từ tấm bé
Cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên
Mẹ là người đã cho con cái tên riêng
Trước cả khi con bật nên tiếng "Mẹ"

Mẹ!
Cái tiếng gọi mà từ khi bập bẹ
Đến lúc trưởng thành
Con vẫn chưa hiểu hết chiều sâu

Mẹ!
Có nghĩa là bắt đầu
Cho sự sống, tình yêu, hạnh phúc

Mẹ!
Có nghĩa là duy nhất
Một bầu trời
Một mặt đất
Một vầng trăng
Mẹ không sống đủ trăm năm
Nhưng đã cho con dư dả nụ cười và tiếng hát
Chỉ có một lần mẹ không ngăn con khóc
Là khi mẹ không thể nào lau nước mắt cho con
Là khi mẹ không còn
Hoa hồng đỏ từ đây hoá trắng...

Rồi những đứa bé lại chào đời và lớn lên theo năm tháng
Biết bao người được làm mẹ trong ngày
Tiếng trẻ con gọi mẹ ngân nga trên trái đất này
Thành âm thanh không bao giờ vắng lặng

Mẹ!
Có nghĩa là ánh sáng
Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim
Cái đóm lửa thiêng liêng
Cháy trong bão bùng, cháy trong đêm tối

Mẹ!
Có nghĩa là mãi mãi
Là cho - đi - không - đòi - lại - bao - giờ
Cổ tích thường bắt đầu từ: "Ngày xưa có một công chúa..." hay "Ngày xưa có một vị vua..."
Cổ tích còn bắt đầu từ: "Ngày xưa có mẹ..."

 Thanh Nguyên

1981

2024/03/05

Internet


ĐÊM QUA

 

Tầm tã mưa rơi đêm đến ngày

Chập chờn thức giấc mộng còn say

Ngỡ mình đang ở bên quê mẹ

Chợt tỉnh rằng: không ...! Khoé mắt cay!

 

Anh Tú

March 5, 2024


2024/02/21


HOA HỌC TRÒ
Mỗi năm đến Hè lòng man mát buồn....

( Nỗi Buồn Hoa Phượng-Thanh Sơn )

Mùa hè / hoa Phượng / chia tay /
Viết lưu-bút tặng cho hoài nhớ thương!
Vắng nhau lòng kíp vấn-vương, 
Trải trên trang bút mùi hương vở / bài.

Ba tháng chia tay, mừng vui gặp lại
Rộn rã cười cùng xiết chặt tay nhau
Man-mát buồn đôi bạn bè vắng mặt
Rưng-rưng sầu hỏi bạn lạc nơi đâu?

Hè lại về, trời xanh đầy Phượng đỏ
Ép cành hoa vào quyển vở học-sinh
Đếm thời-gian thầy trò bên sách vở
Ướp hồn trường cho tim mãi lung-linh!

Có kẻ vong thân sống đời lưu lạc
Mơ về nơi trời rực-rỡ nắng hồng
Hoa Học-Trò rung rinh trong gió lộng
Hoa nhớ chăng đến cánh nhạn phiêu-bồng?

Nguyễn Hồng Ẩn

2024/02/17

MƯA XUÂN



Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng,
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,
Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.

Lòng thấy giăng tơ một mối tình.
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh.
Hình như hai má em bừng đỏ,
Có lẽ là em nghĩ đến anh.

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn,
Em ngửa bàn tay trước mái hiên.
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh,
Thế nào anh ấy chẳng sang xem.

Em xin phép mẹ vội vàng đi,
Mẹ bảo: xem về kể mẹ nghe.
Mưa nhỏ nên em không ướt áo,
Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,
Em mải tìm anh chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay đường cửi lạnh,
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.

Chờ mãi anh sang anh chả sang,
Thế mà hôm nọ hát bên làng.
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn,
Để cả mùa xuân cũng bẽ bàng.

Mình em lầm lụi trên đường về,
Có ngắn gì đâu môt dải đê!
Áo mỏng che đầu, mưa nặng hạt,
Lạnh lùng em tủi với đêm khuya.

Em giận hờn anh cho đến sáng,
Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì.
“- Thưa u họ hát...” Rồi em thấy
Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi.*
          *

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,
Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,
Mẹ bảo mùa xuân đã cạn ngày.

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày!
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ Hội Đặng đi ngang ngõ,
Để mẹ em rằng hát tối nay?


Nguyễn Bính
1936



Nguồn:
1. Nguyễn Bính, Lỡ bước sang ngang, Nhà in Lê Cường, 1940*
2. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
3. Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986
4. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Huy Thục phổ nhạc thành bài hát cùng tên:




BÌNH LUẬN 1

Không biết Nguyễn Bính đã chọn Mưa xuân hay Mưa xuân đã chọn Nguyễn Bính mà cho tận sau này, ông vẫn bị làn mưa mơ hồ đến huyền hoặc ấy hút hồn. Nó vẫn chấm xuống hồn thơ nhạy cảm của ông những chấm lạnh để mỗi thoáng rung mình của điệu hồn kia đều ngân lên những ánh thơ mưa: “Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa / Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa... Làng bên ẩm ướt giọng chuông mờ / Chiều xuân lưu luyến không đành hết / Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.” Có còn mảnh hồn thi nhân nào cảm nghe được cái điệu hồn mong manh của mưa xuân trong lơ lửng mù sương phảng phất mưa huyền hồ đến thế nữa không? Duyên mưa kia cơ hồ chỉ trao cho mình Nguyễn Bính - một hồn thơ thuần Việt thuần Quê.


Nhưng đấy là nhìn mãi về sau. Còn bây giờ hãy về lại với cô gái trong khung cửi. Còn gì oái oăm hơn thế không, cái duyên mưa nhập vào thi sĩ lại bắt mối từ chính nỗi tủi duyên của người con gái đó? Những hạt mưa đầu xuân, những cảm xúc luyến ái đầu lòng, những mơ mộng chớm hé về cuộc hò hẹn đầu đời đã gặp sự phụ phàng đầu tiên... lại chính là những ngọn nguồn sầu tủi của một trong những bài thơ đầu tay. Cái đầu tay ban sơ ấy đã làm nên Nguyễn Bính rồi. Nếu chọn bài Nguyễn Bính nhất, hẳn tôi sẽ chọn Mưa xuân. Tương tư cũng hay nhưng phần khéo không ít. Lỡ bước sang ngang réo rắt nhưng đã nghiêng nhiều về phần dễ dãi của ngòi bút này, bi kịch lỡ làng trong đó đã ngả màu cải lương. Còn Mưa xuân không thế. Nghệ thuật không thể không cần đến sự khéo léo. Thì cái khéo léo cần thiết của một ngòi bút trong Mưa xuân chưa đến mức quá đà. Nghệ thuật không thể thiếu ngọn nguồn cảm xúc sâu nặng chân thành. Thì Mưa xuân vẫn vẹn nguyên một bầu chân cảm. Cho đến nay, những giọt mưa xuân sầu tủi từng làm ướt lạnh nỗi lòng kẻ đọc thơ hồi đầu thế kỉ, vẫn cứ làm động lòng những ai đã từng bị lỗi hẹn trong tình đầu, làm xao xuyến những ai được hưởng cái thần tiên ban sơ của cuộc hẹn đầu đời, và vẫn luôn đánh động tâm can mọi tình nhân đang ấp ủ khát khao luyến ái. Theo cách của Thánh Thán, thì ở đây cái khéo không át mất thiên chân, còn thiên chân đã được sự khéo léo nâng lên thành hàm súc. Chẳng phải Nguyễn Bính đã chín ngay từ tiếng thơ đầu lòng đó sao?

*

Nghiên cứu Nguyễn Bính tôi thấy thơ ông nổi lên hai giọng điệu trữ tình: than thở và đùa ghẹo. Cả hai đều có ngọn nguồn từ ca dao dân ca: nếu than thở có gốc từ tiếng hát than thân, thì đùa ghẹo có cội rễ từ hát giao duyên. Ta vẫn thấy điều hơn người ở Nguyễn Bính là Hồn quê. Thì giọng điệu này chính là hiện thân cụ thể nhất mà cũng huyền diệu nhất của hồn quê đó. Nói một cách khác, giọng điệu này chính là Cái hồn kia được điệu thức hoá. Trong thơ của chàng “thi sĩ của thương yêu” này, than thở là bao trùm, đùa ghẹo chỉ cườm vào mạch thở than như một sắc điệu điểm xuyết. Đã thở than thì không thể thiếu được nguồn cơn - ấy là một sự kiện rủi ro nào đó. ở chàng thi sĩ “giời đày làm thơ” này, thường chỉ là những sự trái ngang của duyên và phận. Đã thở than thì không thể không kể lể cái sự ấy cho người nghe cảm thông, không thể không than vãn những khúc nhôi nặng đè cho người nghe chia sẻ. Bởi thế Cái Tôi trữ tình của Nguyễn Bính là Cái tôi lỡ dở, và nó thường hiện ra để mà kể lể than vãn. Cũng bởi thế hạt nhân của mỗi bài thơ Nguyễn Bính bao giờ cũng là một cái sự nào đó, được diễn ra thành một cái cốt truyện ở một mức nào đó. Điều này làm nên chất tự sự thấm đẫm trong thơ ông. Và bởi tất cả những điều ấy mà nền âm hưởng của mọi tiếng thơ Nguyễn Bính đều là những vang vọng của một lời kể lể sự tình. Nét phong cách này dường như đã chín ngay từ Mưa xuân.

Sự ở Mưa xuân là cái lần bị lỗi hẹn ngay trong cuộc hò hẹn đầu đời của một cô gái chân quê. Nó là một sự phụ phàng. Một lỡ làng. Một tổn thương. Người trong cuộc cũng như ngoài cuộc có thể kể khá rành: Chuyện xảy ra ở một làng Đặng nào đó nơi xứ Bắc. Cô gái Thôn Đông lần đầu hẹn hò tìm nhau với chàng trai thôn Đoài trong đêm hát chèo của làng. Cô đã xốn xang đợi chờ, đã bươn bả đến nơi hẹn, đã bồn chồn hồi hộp ngóng tìm... Nhưng cuối cùng, chàng trai kia đã quên mất lời hẹn. Đến tận lúc hội chèo rã đám, vẫn không thấy bóng đâu. Cô gái một mình trở về dưới mưa đêm trong nỗi sầu tủi cực lòng... Có thể nói, đó là cái cốt truyện. Nó làm nên cấu trúc tự sự cho thi phẩm. Cái khéo của Nguyễn Bính là đã nhập vai vào cô gái để câu chuyện kia thành một thứ tự truyện. Và cũng vì thế mà lời tự kể, tự sự kia có cơ hội để thấm đẫm màu sắc tự tình, tư vãn một cách tự nhiên. Vừa tái hiện sự, vừa phổ vào mỗi một tình tiết của sự một sắc điệu tâm tình, nên mạch thơ triển khai vừa là vận động của sự vừa là biến động của tình. Tình phổ vào Sự có thể làm cho Sự thăng hoa, nghĩa là câu chuyện được nâng cao hơn ở tính truyền cảm. Tuy nhiên, mạch sự - tình sóng sánh kia giỏi lắm cũng chỉ làm cho câu chuyện thành một truyện thơ lâm li thôi. Nghĩa là khó có thể thành một bài thơ trữ tình. Mưa xuân đã trở thành chính nó là bởi một lí do khác.

Bởi... mưa xuân vậy!

*

Chẳng nhẽ lại khẳng định đây phải là mưa xuân chứ không thể là một thứ mưa nào khác. Nhưng không ý thức như vậy thì không thể thâm nhập được vào chiều sâu của thi tứ. Nó là đầu mùa, là đầu năm, là tơ vương đầu tiên, mối tình đầu tiên, cuộc hò hẹn đầu tiên... Bởi thế chỉ có thể là mưa xuân. Làm nên một bài thơ trữ tình không thể không nói đến vai trò của cấu tứ. Mưa xuân hiện diện ở đây chính là để đảm đương vai trò này. Mọi sự tình bắt đầu từ đó. Bài thơ có sự phân định rành mạch và cũng tự nhiên của hai không gian: khung cửi và cuộc đời. Kẻ chia rẽ hai không gian này chính là... mưa xuân. Đây là quãng đời khi mưa xuân chưa đến:

Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
Nó mới êm đềm và dễ thương làm sao! Không phải chốn khuê phòng gìn giữ các tiểu thư bằng lễ giáo. Khung cửi kia là cả một thế giới riêng. Mấy chữ “trong khung cửi” đâu chỉ vẽ ra một không gian, mấy chữ “dệt lụa quanh năm” cũng đâu chỉ xác định vòng thời gian hợp nên cái thế giới lao động. Mà còn là thế giới bình yên. Và đáng nói hơn, đó là thế giới con gái. Cùng với chữ “con gái” tự nhiên mà kiêu hãnh, là chữ “trong” đầy ý nhị, như giấu trong đó cả một lời phô kín đáo về cái chất “con gái” nhà lành thuần khiết của mình. Người mẹ thôn dân đã gìn giữ con gái yêu bằng lao động chân quê và tình mẫu tử thuần phác. Từ trong khung cửi ấy em thầm lớn lên. Bằng chính cách liên tưởng của người canh cửi, những lời quê, lời thiếu nữ tự thuật ở đây giản phác thôi mà không thiếu tự hào: Lòng trẻ còn như cây lụa trắng, Mẹ già chưa bán chợ làng xa. Trong thế giới con gái đó, em vẹn nguyên một lòng trẻ trinh bạch tinh khôi, một hồn thơm phong nhuỵ.

Thế rồi, mưa xuân đến.

Mưa xuân không chỉ giăng tơ cho trời đất. Mưa xuân còn giăng tơ vào cả hồn người. Mưa xuân đã gieo vào lòng em những luyến ái đầu tiên hay hạt mầm vốn phong kín trong lớp vỏ êm đềm thời thơ trẻ, gặp mưa xuân bỗng xốn xang tách vỏ? Và điều kì diệu đã diễn ra: những hạt mưa xuân đầu tiên đã thầm biến cô bé thành cô gái. Từ trong khung cửi em đã bước ra ngoài trời xuân của cuộc đời theo tiếng gọi của mưa xuân. Tất cả bắt đầu từ Bữa ấy. Nó là cái mốc của một đời người. Cái mốc chỉ một mình em biết. Hứa hẹn và trớ trêu. Vừa mới từ giã khung cửi bình yên của tuổi nhỏ, chớm bước ra giữa đời, em đã gặp ngay sợi dây oan trái của tình duyên. Dường như bên ngoài khung cửi kia là bể khổ mà em nào hay biết. Chưa kịp nếm Ngọt ngào, đã liền ngấm Đắng cay. Hạnh phúc vừa nhen lên, Khổ đau đã giáng xuống. Tình chửa Sánh đôi đã vội Lỡ làng... Tất cả đều trong một Bữa ấy. Điều này quyết định đến kiểu cấu tứ đối xứng gập đôi của thi phẩm.

*

Đúng là Nguyễn Bính đã lập tức trở thành thi sĩ của mưa xuân ngay từ những nét bút đầu tiên:

Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Chỉ với hai câu mà đã thâu gồm được cả đất trời xuân nơi thôn dã. Ấy là buổi trời đất dậy thì xuân. Cả trời mưa bụi và lớp lớp hoa xoan đều phơi phới dậy thì. Dự cảm luyến ái làm nức xuân tâm bao nhiêu thì dường như cũng hồi hộp phấp phỏng bấy nhiêu. Có lẽ chỉ một mình em biết rằng đất trời kia đang mang trong nó niềm xốn xang thiếu nữ!

Nguyễn Bính đã xe quyện cả tơ trời với tơ lòng trong cùng một tiếng “giăng tơ” rất tự nhiên của người dệt lụa. Bằng cách ấy, mưa xuân cũng giăng mắc vào khung-cửi-lòng những sợi tơ đầu tiên cho một tấm tình:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.
Đúng là hai chữ “hình như” và “có lẽ” đầy bóng gió ý nhị rất hợp với giọng ngập ngừng khi giãi bày cảm xúc luyến ái theo lối chân quê. Nghĩa là Nguyễn Bính đã dùng lời quê để biểu hiện duyên quê [1]. Cái dáng vẻ e ấp của một thiếu nữ khi tình chớm đến đã theo đó mà in bóng vào lời thơ. Nó cũng là một sắc thái trêu chòng khá phổ biến làm nên sắc điệu đùa ghẹo rất quen thuộc của giọng thơ Nguyễn Bính. Và, có qui luật nào đây, mà sắc trắng lại có thể hoá thành sắc đỏ? Có. Qui luật ấy có tên là... yêu. Tác nhân ấy có tên là... anh. Cùng với mưa xuân, hình bóng anh đã bước vào lòng em, và thế là sắc trắng bỗng dậy lên thành sắc đỏ. Từ “Lòng trẻ còn như cây lụa trắng” đến “Hình như hai má em bừng đỏ”, hành trình ấy có xa đâu, mà cô bé thơ ngây đã hoá thành cô gái e lệ. Làm sao còn có thể yên định trong khung cửi được nữa! Em bèn ngừng tay thoi dệt tấm lụa thơ trẻ cuối cùng trong khung cửi để bước ra mùa xuân tự mình làm một con thoi mà dệt tấm tình đầu.

Ngòi bút tả tình ái vốn không thể thiếu những ý nhị tình tứ. Tả dạng luyến ái ban sơ lại càng cần hơn bao giờ. Mà điều này ngòi bút Nguyễn Bính mới dồi dào làm sao. Có những câu ý nhị đến kì diệu:

Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chẳng sang xem!
Thi sĩ đã hoá thân vào cô gái để làm sống dậy cái hân hoan khi đèn lên đêm xuống, cả cái cách xem mưa bằng ngửa lòng tay thật chân quê. Nhất là những chấm mưa chấm xuống làn da đầy mẫn cảm. Những chấm lạnh ấy đâu chỉ là tín hiệu của mưa nhẹ hạt. Nó còn như lời thì thầm mời mọc của mưa xuân. Những chấm lạnh lan truyền theo một cách bí ẩn nào đó qua làn da thiếu nữ mà nó hoá thành một khát khao thầm kín, hơn là một đoan chắc đến cả tin: “Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh / Thế nào anh ấy chẳng sang xem!” Bởi vì cũng là cái lạnh cả thôi, nhưng cảm giác lạnh chốc nữa (“Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh”) thì nhắc đến nỗi lẻ loi của con thoi thiếu hơi ấm ngón tay em (“Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”), còn giờ đây từng chấm lạnh ấy lại xui em nhớ mong anh. Có một vầng ấm đâu đây ở bên kia từng chấm lạnh này. Và thế là em vội vàng đi. Khác nào một con thoi dưới muôn nghìn sợi tơ mưa mong dệt nên tấm tình ấy.

*

Cũng bắt đầu từ đây lộ dần ra cái kiểu cấu tứ đối xứng gập đôi. Về căn bản cả bài thơ tự nó đã hình thành hai phần cân xứng. Trục đối xứng ở đây dường như đặt trong cái tiếng than trách hờn tủi: Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng! - cái tiếng than tức tưởi cất lên như rạch đôi, gập đôi cả bài thơ. Phần trước diễn tả tâm trạng “xăm xăm băng nẻo”,“đánh đường tìm hoa” [2] của cô gái. Phần sau là tâm trạng tủi phận tủi duyên. Nếu nửa trên có thể ví như dương bản - đầy ánh sáng và hơi ấm, thì nửa sau chính là âm bản - đầy lạnh lùng và tối tăm. Cùng một cảnh trí ấy, cùng những sự vật ấy, diện mạo trước sau đã hoàn toàn tương phản. Trước: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay - Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy” sao mà xốn xang; sau: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay - Hoa xoan đã nát dưới chân giày” sao mà ê chề (Ngại bay không phải là tạnh mưa mà đã chuyển thành “mưa nặng hạt”, thế là mưa bay đã hoá mưa rơi, trên chặng đường về canh khuya ấy, mưa xuân dường như đã hoá thành mưa ngâu rồi - mưa hò hẹn sum vầy đã thành mưa lỗi hẹn cách chia). Trước: “Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ”, mẹ như vô tình mách bảo một cơ hội; sau: “Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ”, mẹ có vô tình không mà như than tiếc một cơ duyên - “Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”. Trước: vội vàng đi; sau: lầm lụi về. Trước: “Mưa bụi nên em không ướt áo”; sau: “áo mỏng che đầu mưa nặng hạt”. Trước: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”; sau: “Có ngắn gì đâu một dải đê” v.v... Kẻ nỡ biến cả thế giới mưa xuân từ dương bản thành âm bản chính là sự lỗi hẹn phụ phàng. Lỗi hẹn với em, lỗi hẹn với mùa xuân - “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”.

Mưa xuân đến như xe duyên với bao hảo ý, thế rồi mưa xuân cũng bị phụ phàng, cũng thành một nạn nhân. Chỉ một lần lỗi hẹn mà uổng cả một mùa xuân - Mùa xuân đã cạn ngày chứ đâu chỉ ngày xuân đã cạn rồi! Không chỉ là cuộc hẹn của một ngày xuân, mà của cả một thì xuân, thậm chí, cuộc hẹn của một đời người. Khoảng cách giữa em và anh, bây giờ không còn đo đếm được bằng một thôi đê giữa thôn Đoài với thôn Đông nữa rồi. Giờ đây giữa anh và em là vời vợi xuân qua. Một cuộc hẹn không thành, một cơ duyên như vĩnh viễn trôi đi. Mưa xuân đến cho tình đâm chồi, nhưng chồi mầm vừa mới nhú lên sự phụ phàng cơ hồ đã làm thui chột. Phơi phới xốn xang lập tức thành ê chề chán nản! Tấm tình em định dệt, than ôi, đã thành lụa ướt, lụa tướp, lụa lỡ làng! Con thoi xăm xăm băng trên khung cửi mùa xuân ấy đã chẳng được đáp đền.

Thế là, một cái gì đã vĩnh viễn mất đi cùng với làn mưa xuân bữa ấy. Sự vô tình không thể là vô tội. Tổn thương đầu đời này hẳn sẽ còn lưu mãi qua những xuân sau. ấy thế mà nhân hậu thay, hay là dại dột thay, cô gái dường như đã tha thứ cả. Và vẫn khát khao mong đợi đến xuân sau: Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây - Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ - Để mẹ em rằng: hát tối nay? Thật dễ thương mà cũng thật đáng thương có phải không bạn? Từ cuộc đời về lại khung cửi, mọi chuyện chẳng thể còn như cũ. Thế giới con gái vẫn còn, nhưng thế giới bình yên đã mất. Lòng trinh khi đã biết xốn xang thì còn có thể về lại thơ ngây được không? Có thể năm sau xuân đến, mưa xuân có về, thì chồi xuân nay làm sao còn có lại cái háo hức tinh khôi thần tiên ấy nữa.

Bài thơ khép lại một lỡ làng. Nhưng bi kịch lỡ làng vẫn sẵn chờ thi sĩ trên cả mười hai bến nước của một đời thơ.

Và tôi chắc rằng, mãi về sau nữa, mỗi lần đọc, Mưa xuân sẽ vẫn cứ rơi xuống lòng ta những chấm lạnh như ngày nào.


[1] Làm nên hồn quê, không thể không có vai trò của lời quê. Nguyễn Bính đã gọi dậy cả hồn quê chính trong mỗi một lời quê đó. Cái cách tả buổi tối theo lối quê: “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn”, cái cách đo khoảng cách đường xá: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”, cách dùng thành ngữ để hờn trách: “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn”, cách diễn tả nỗi đơn lẻ của mình (thương mình) vòng qua nỗi đơn chiếc của con thoi (thương đối tượng khác): “Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”, cách tả mưa: “Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay”, cách ước đếm thời gian: “Anh ạ mùa xuân đã cạn ngày”... tất cả đều đượm vẻ quê. Nghĩa là cách nói cụ tượng bằng chính những sự vật bình dị, mộc mạc gắn bó với thôn ổ từ bao đời nay, hoặc lối nói gián tiếp bóng gió. Thế giới tâm tình của một cô gái quê được gọi dậy bằng những lời quê ấy. Bởi chính những lời quê kia đã kết lắng trong nó tâm tình của dân quê. Và đến lượt nó, chính lời quê cũng góp phần nuôi dưỡng bảo lưu hồn quê trong mỗi một người quê.

[2] Chữ của Nguyễn Du.

Văn Chỉ, dưới mưa xuân Tân Tỵ
Chu Văn Sơn
(trích từ Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử, Kỳ 7: Thẩm bình thơ Nguyễn Bính, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003)

BÌNH LUẬN 2

Thơ Nguyễn Bính viết nhiều về mùa xuân. Cuộc sống ở làng quê không gì vui bằng ngày xuân. Xuân là mùa hồi sinh của đất trời. Cây cối nẩy lộc, đâm chồi sau những ngày đông giá lạnh, xơ xác, tiêu điều. Mùa xuân ấm áp cũng là mùa của lễ hội. Nhiều bài thơ hay trong Thơ mới được khơi nguồn từ cảm hứng xuân. Đoàn Văn Cừ với Đám cưới mùa xuân đã miêu tả không khí hội xuân và thiên nhiên cũng chia sẻ niềm vui với con người:

Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xuân tắm nắng
Anh Thơ trong Chiều xuân cũng gợi được không khí xuân qua những hình ảnh thanh bình của làng quê, dòng sông, con đò, mưa bụi trên bến vắng...
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời
Hàn Mặc Tử với Mùa xuân chín đã thâu tóm được sự sống và vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.
Ở thơ Hàn Mặc Tử còn có một Xuân như ý và Xuân đầu tiên với cảm hứng mới lạ, tinh khôi về một đất trời xa lạ nhưng cũng không thể đẹp bằng mùa xuân giữa cuộc đời: Mùa xuân chín. Một số nhà thơ lại cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và cuộc đời không qua những hình ảnh cụ thể mà ở sức xuân, hơi xuân như trường hợp Huy Cận:
Xuân gội tràn đầy
Giữa lòng hoan lạc
Trên mình hoa cây...
Nắng vàng lạt lạt
Ngày đi chầy chầy...
... Mái rừng gió hầy
Chiêu xuân đầy lời
(Chiều xuân)
Nguyễn Bính viết nhiều về mùa xuân, về những cảnh xuân chân thực của làng quê: Mưa xuânXuân vềXuân tha hươngRượu xuânNhạc xuânThơ xuânMùa xuân xanh. Mùa xuân quả là có duyên thơ với Nguyễn Bính. Những bức tranh của đồng quê và làng quê thật trong sáng, tươi vui khi xuân về. Thiên nhiên như hồi sinh, cỏ cây xanh tươi, con người lấy lại sức lực...:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.
(Xuân về)
Ở khổ thơ trên, Nguyễn Bính chưa trực tiếp tả cảnh vật mùa xuân. Chỉ với một tín hiệu nhỏ, khi ngọn gió đông về đã thấy hơi xuân ấm áp. Cô gái làng quê là người nhạy cảm nhất với những dấu hiệu giao mùa. Cặp mắt trong ngước nhìn trời, và đôi má ửng hồng của cô gái là những dấu hiệu phản quang chính xác của mùa xuân. Nguyễn Bính trong hài Xuân về đã miêu tả thật đẹp làng quê trong khung cảnh mùa xuân với “trời quang nắng mới hoe” và đồng quê “Lúa thì con gái mượt như nhung”. Và đặc biệt là phong tục và văn hoá của làng quê trong ngày xuân, các cô gái “yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa” và những cụ già “Tay lần tràng hạt miệng nam mô’’ nói lên nếp sống gần gũi từ lâu đời.

Mưa xuân lại giới thiệu một khung cảnh đặc biệt của mùa xuân. Mưa xuân, đêm hội chèo, sự hò hẹn của đôi lứa và những nỗi niệm vui buồn của cô gái quê. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính giới thiệu khung cảnh một gia đình sống nền nếp với nghề canh cửi, có mẹ già và cô gái tuổi hoa niên. Cô gái như đỡ lời tác giả và tự nói về mình:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
Dịu dàng, ngây thơ và trong trắng. Khuôn khổ của đời sống gia đình và công việc lao động cần mẫn quanh năm tưởng như tách biệt cuộc sống của người con gái với thế giới bên ngoài. Hình ảnh thơ gợi nhớ đến câu ca “Thân em như tấm lụa đào - Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Ở đây hình ảnh cây lụa trắng gợi lên một cái trinh trắng của cô gái ít giao lưu tiếp xúc. Có lẽ còn lâu lắm cô gái mới nghĩ đến chuyện gia đình. Nguyễn Bính đã đưa khung cảnh thiên nhiên của một đêm xuân để gợi mở cho câu chuyện:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Chỉ có hai câu thơ mà xốn xang và gợi không khí quá. Những cụm từ “phơi phới bay”, “lớp lớp rụng vơi đầy” vừa diễn tả đúng trạng thái của hiện tượng lại mang màu sắc thẩm mĩ riêng biệt. Bình thường là những giọt mưa rơi, nhưng với Mưa xuân, Nguyễn Bính viết mưa bay là đúng và “phơi phới bay” lại rất gợi tả. Hoa xoan quen thuộc ở vùng quê không khoe hương, khoe sắc. Nhưng hình ảnh gợi cảm nhất của những chùm hoa xoan là khi tàn rụng, những cánh hoa nhỏ bay lớp lớp phủ trên đường. Anh Thơ đã rất có lí và nghệ thuật khi viết “Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời!‘’ Cùng với hiện tượng đó, Nguyễn Bính rất sáng tạo khi viết “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Tô Hoài đã nhắc đến hai câu thơ trên của Nguyễn Bính với lời khen trân trọng: “Tầm vóc, thật tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính!”
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.
Thiên nhiên nhiều màu vẻ ấy đã làm mất đi không khí và cảm xúc bình lặng, nhất là gánh chèo làng Đặng đi qua ngõ càng gợi lên không khí vui chơi hội hè của làng quê. Cô gái nết na và kín đáo không còn giữ được sự bình thản. Có thể giấu được mẹ già và người xung quanh nhưng không thể tự giấu được mình. Dường như có một cô gái khác tình tứ hơn đã nhập vào mình:
Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến mình.
Nguyễn Bính đã diễn tả tình yêu của cô gái quê thật nhẹ nhàng tinh tế; khởi đầu là những rung cảm thật nhẹ như tơ vương, gợi chút xao xuyến trong lòng. Những rung động lớn dần, con thoi cần mẫn của khung cửi không đi về được theo nhịp bình thường khi trái tim cô gái đã có những nhịp đập khác thường Dấu hiệu ngừng công việc của cô gái đang độ tuổi yêu đương để theo đuổi hết ý nghĩ của lòng mình đã được nhắc đến trong thơ xưa. Sư Huyền Quang trong bài Xuân nhật tức sự đã miêu tả cảm xúc của cô gái đẹp tuổi đôi tám với cảnh sắc mùa xuân, cô gái đã dừng mũi kim thêu để cảm nhận cho hết xuân ý, xuân tình:
Người con gái đẹp tuổi đôi tám chầm chậm thêu
Dưới bóng hoa tử kinh, chim hoàng li nhảy nhót
Đáng kêu là cái ý thương xuân vô hạn
Đọng lại tất cả ở lúc dừng kim không nói năng.
Sự việc vẫn được tiếp nối và phát triển. Hình bóng người con trai đến đây đã xuất hiện trong ý nghĩ của cô gái mà cô như cảm thấy có chút ngượng ngùng. Không soi gương mà biết má mình bừng đỏ. Đó là trạng thái tự nhận biết của các cô gái trẻ đang yêu đương. Khổ thơ với những từ ngữ gợi không khí như xưa: “giăng tơ”, “thoi xinh” nhưng lại rất mới mẻ với trạng thái diễn tả không xác định qua các từ “có lẽ”, hình như chấp nhận một tình cảm thực của lòng mình trong yêu đương cũng e ấp, ngượng ngùng. Phải chăng đó là đặc điểm của các cô gái còn ngây thơ, trong trắng? Nhưng rồi người đọc cũng khó đoán định được diễn biến của tâm tình và sự việc.

“Mưa xuân’’ cũng như nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính thường có yếu tố của cốt truyện. Từ tâm tình đã chuyển dần sang hành động. Cô gái nghĩ đến chàng trai và những lời hò hẹn. Trời đã tối, hàng xóm đã lên đèn, mưa xuân vẫn bay và bao phủ bầu trời đêm. Nguyễn Bính đã miêu tả những chi tiết nghệ thuật gợi cảm. Cô gái như có chút đắn đo, ngập ngừng trước trời mưa lạnh, nhưng ý nghĩ ấy nhanh chóng bị lướt qua khi nghĩ đến sự có mặt của chàng trai trong đêm hội:
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chẳng sang xem!
Tình yêu như có sức mạnh kì diệu đã tiếp sức cho cô gái đang tuổi yêu đương. Thật khó hình dung những đổi thay của cô gái quê, lúc đầu còn e ấp, ngượng ngùng và sau đó đã trở nên mạnh dạn, kiên quyết hơn. Dường như không có gì cản trở được tình yêu. “Mưa bụi nên em không ướt áo - Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Cô gái xin phép mẹ và vội vàng đi. Những chi tiết trên gợi nhớ đến một nàng Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” và khi gặp người yêu Thuý Kiều giãi bày những ý nghĩ chân thực, đáng trọng, đáng yêu và cũng gợi bao thương cảm:
Nàng rằng: “Quãng vắng đêm trường”,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
Bây giờ rõ một đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chăng là chiêm bao?
Nhưng dù sao nàng Kiều cồn được bù đắp, còn gặp gỡ được người yêu để tâm tình. Hình ảnh cô gái trẻ mải miết tìm người yêu trong đêm hội, không thiết đến chuyện xem hát cũng nói lên mãnh lực của tình yêu và gợi biết bao thương cảm ở người đọc. Không còn là chuyện lầm lẫn trong hẹn hò. Nguyễn Bính đã đẩy tứ thứ vận động và phát triển đến cao điểm của những tương phản mang tính bi kịch: niềm tin yêu mong đợi của tuổi trẻ mạnh dạn dân thân và sự bất ngờ đến đau đớn của cảnh ngộ, tình yêu tin cậy chung thuỷ và sự bội bạc phũ phàng, khung cảnh hội hè vui vẻ và cảnh cô đơn, tủi phận của riêng ai:
Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bày tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng.
Trong ý thơ có lời trách cứ, giận hờn. Chính ở phút giây đáng giận, đáng căm ghét này, cô gái vẫn tỏ ra hiền dịu và chỉ biết trách cứ chàng trai. “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn” nhưng đã sớm quên lời hẹn ước. Từ đây tứ thơ và cảm xúc thơ mang nặng tủi buồn. Nếu ở những khổ thơ đầu nhân vật trữ tình còn mong đợi, còn náo nức, còn hăng hái thì đến đây tất cả như đảo ngược. Thời gian trôi qua chưa lâu và cũng vẫn là đêm xuân ấy nhưng sự cảm nhận của người trong cuộc về thời gian đã hoàn toàn khác biệt: “Để ả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Sự lỡ hẹn trong tình yêu đôi lứa có thể dẫn tới sự nhỡ nhàng. Tác giả không nổi hẳn vào cảnh ngộ của nhân vật mà chọn một cách nói tinh tế và giàu tính nghệ thuật hơn. Từ đây, mùa xuân với đơn vị thời gian vốn có đã được tác giả sử dụng với nhiều dụng ý nghệ thuật. Con đường trở về với cô gái chắc chắn là con đường Xa. Nếu trước đây “Thôn Đoài cách có một thôi đê” thì bây giờ là “có ngắn gì đâu một dải đê”. Nếu trước đây mưa xuân còn nhẹ hạt “Mưa bụi nên em không ướt áo” thì bây giờ “Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt”. Và nỗi tủi thân của cô gái canh khuya lặn lội đường trường. Nguyễn Bính đã thật sự cảm thương nhân vật qua những dòng thơ. Tác giả cũng không thể an ủi được gì hơn và cũng muốn để cho nhân vật được lặng lẽ với tâm trạng riêng của mình:
Mình em lầm lụi trên đường về
Có ngắn gì đâu một dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.
Không có một âm thanh nào của cuộc sống và thiên nhiên tạo vật. Không có một hình ảnh nào lấp lánh mở ra một tia hi vọng. Chỉ có nỗi buồn của nhân vật và sự cảm thương ở người đọc. Tứ thơ đã dần khép lại với những hình ảnh da diết gợi cảm. “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay”, câu thơ gợi không khí và xôn xao ấy không còn nữa, ý thơ khép lại mưa xuân với những hình ảnh nặng nề và tủi buồn:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.
Nguyễn Bính đã tỏ ra hăng hái trong nghề khi vận dụng lại hàng loại những ý thơ và hình ảnh thơ ban đầu với những sắc thái mới tương phản, đối lập. Mưa xuân không “phơi phới” mà đã “ngại bay”, hoa xoan bị chà đạp trên lối đi về. Cảnh tượng ấy phải chăng cũng phù hợp với cảnh ngộ của con người? “Mùa xuân đã cạn ngày”, câu nói của người mẹ như khép lại. Nếu còn chăng chính là nỗi buồn của người con gái, một nỗi buồn phải âm thầm chịu đựng. Tuổi trẻ tin cậy vẫn chưa mất hẳn niềm hi vọng. Một câu hỏi không thể tìm được lời đáp “Bao giờ em mới gặp anh đây?”. Những cô gái làng quê trong trắng, chung tình trong thơ Nguyễn Bính vẫn chờ đợi. Mùa xuân qua, lại chờ đợi một mùa xuân tới. Cô lái đò chờ đợi đến ba xuân mà vẫn vô vọng. Người con gái trong Mưa xuân liệu có đi lại con đường ấy. Mùa xuân của đất trời hàng năm lại trở lại. Mưa xuân lại phơi phới bay, nhưng mùa xuân của cuộc đời thì chỉ đến có một lần. Bài thơ Mưa xuân đã ghi lại cả hai mùa xuân ấy và gợi lên bao ngậm ngùi xót xa về số phận và hạnh phúc của tuổi trẻ trong cuộc đời cũ những tháng năm qua.

Tửu tận tình do tại.
Tất cả bài viết trích từ:

2024/01/30


TẾT ƠI !

 

Đông này mưa gió nhiều hơn tuyết

Tóc bạc màu theo ngày tháng trôi

Mòn mỏi hồn ơ hờ thế sự

Hết chờ xuân mơ mộng xa xôi!

 

Giờ đây bè bạn ta ngơ ngác

Kniệm xưa chuyện nhớ chuyện quên

Mới nói cười khuyên gìn sức khoẻ

Lặng im rời đến ci mông mênh!

 

Quê nh đang rộ vàng mai nở

Xa xứ mùa cây lá trụi trơ

Ta đã bình an hơn muốn có

Tâm tình xin gởi mấy vần thơ !

 

Anh Tú

Đông Bắc Hoa Kỳ

Jan 30, 2024

20 Tết Giáp Thìn

2024/01/17

 Tưởng Niệm

50 năm

Hải Chiến Hoàng Sa


https://tse3.mm.bing.net/th?id=OIP.viBj5A9evviJkEn0YQKyzwHaJJ&pid=Api&P=0&h=180


Nguyễn Tường Tuấn phỏng vấn Điệp Mỹ Linh


NTT.- Sau năm 1974, hằng năm, đến ngày 19 tháng Giêng, dù bất cứ nơi đâu hoặc hoàn cảnh khó khăn đến thế nào, người Việt Nam cũng nghĩ đến hoặc cầu nguyện/thắp nhang hay viết đôi dòng về những trang sử đẩm máu trong cuộc hải chiến không cân sức giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và sự xâm lăng có chủ mưu của Trung cộng tại quần đảo Hoàng Sa!


Để kỷ niệm trang lịch sử rất hào hùng nhưng đầy đau thương của dân tộc Việt Nam – tại quần đảo Hoàng Sa, 50 năm trước – năm nay, 2024, Diễn Đàn KBC của Nguyễn Tường Tuấn xin gửi đến quý vị chương trình Tưởng Niệm 50 năm Hải Chiến Hoàng Sa, với sự hợp tác của nhà văn Điệp Mỹ Linh, một người thuộc vào đại gia đình Hải Quân VNCH. 


Chào chị ĐML. Mời chị gửi lời chào đến quý thính giả.


ĐML.- ĐML xin trân trọng kính chào quý thính giả của diễn đàn KBC và kính chào anh Nguyễn Tường Tuấn.


NTT.- Thưa chị, là một người thuộc vào gia đình Hải Quân VNCH, chị có thể cho biết nguyên nhân nào đưa đến ngày lịch sử 19 tháng Giêng 1974, tại Hoàng Sa, hay không ạ?


ĐML.- Kính thưa quý thính giả, tôi thuộc vào đại gia đình Hải Quân VNCH và tôi từng tháp tùng nhiều cuộc hành quân hỗn hợp trên sông rạch thuộc vùng IV Sông Ngòi – để viết tường thuật. Nhưng, ít ai biết được rằng tôi hoàn toàn không được biết bất cứ điều gì về bí mật quân sự của Hải Quân VNCH. Do đó, tôi không thể biết được nguyên nhân đích thực của trận Hải chiến Hoàng Sa. 


Tuy nhiên, dư luận thời 1974 cho rằng sự xung đột giữa VNCH và Trung cộng khơi nguồn từ sự việc mỏ dầu hỏa đã được tìm thấy trong vùng Thái Bình Dương. Trung cộng muốn độc chiếm mỏ dầu đó.


Riêng tôi, ngay sau khi cuộc hải chiến tại Hoàng Sa giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung cộng bùng nổ, tôi đã nghĩ rằng những cuộc cường tập quy mô do cộng sản Việt Nam (csVN) gây ra liên tục tại miền Nam Việt Nam – trước ngày 19/01/1974 – là sự giao ước “ngầm” giữa csVN và Trung cộng để csVN trả món nợ vũ khí và quân dụng mà Trung cộng đã cung cấp cho người csVN để người csVN đánh Mỹ, tạo điều kiện cho Trung cộng dễ chiếm Hoàng Sa; csVN cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam; Trung cộng chiếm trọn Biển Đông.


NTT.- Chị có thể nói rõ hơn hoặc dẫn chứng những thí dụ cụ thể về sự giao ước “ngầm” giữa csVN và Trung cộng hay không ạ?


ĐML.- Vâng, tôi xin được giải thích về suy luận của tôi, theo thứ tự thời gian:


1.- Ngày 21/01/1968, csVN tấn công Khê Sanh để đánh lạc hướng Quân Lực VNCH!

2.- Ngày 30/01/1968, csVN đã – xâm phạm Hiệp Ước Đình Chiến – đồng loạt pháo kích và tấn công dữ dội vào các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam! Huế bị thiệt hại nặng nhất, với nhiều ngôi mộ tập thể!

3.- Hamberger Hill – tên gọi khác là Hill 937 – tại Ấp Bia, từ ngày 10 đến ngày 20/05/1969.

4.- Mặt trận Nam Lào, đường số 9, 1971.

5.- Chiến dịch Bắc Tây Nguyên, 1972.

6.- Mặt trận Cổ Thành Quảng Trị, 1972.

7.- Chiến dịch Trị Thiên từ 30/03/1972 đến 31/01/1973.

Người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, 29/03/1973. 


Mỗi khi csVN mở mặt trận nơi nào, Hải Quân VNCH cũng phải chuyển vũ khí/đạn dược/quân xa/quân dụng/quân nhân, v.v. đến vùng đó. Khi csVN mở 07 cuộc tấn công – như đã kể trên – các chiến hạm hữu dụng của Hải Quân VNCH đều bị trưng dụng; chỉ còn tại Hải Quân Công Xưởng vài chiến hạm cần phải “đại kỳ/tiểu kỳ”, nghĩa là thay thế, sửa chữa những bộ phận quan trọng hoặc những hư hại khác.


Thời điểm này, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, chỉ còn 01 máy hữu dụng. Thế mà HQ10 cũng phải bị trưng dụng để tham chiến trận Hoàng Sa!


NTT.- Thưa chị, chị vui lòng cho biết – ngoài chiến hạm Nhật Tảo – có tất cả bao nhiêu chiến hạm của Hải Quân VNCH tham chiến trận Hoàng Sa?


ĐML.- Kính thưa quý thính giả, lực lược Hải Quân VNCH đã tham chiến trận Hải Chiến Hoàng Sa gồm có:


1.- Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ16, và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ5 đều có cùng đặc tính kỹ thuật và hỏa lực. Mỗi chiến hạm được trang bị: 01 hải pháo 127 ly; 02 hải pháo 40 ly đơn; 01 hải pháo 40 ly đôi; 02 trọng pháo 20 ly. 

Trong chuyến hải hành đến Hoàng Sa HQ5 đem theo 49 Biệt Hải – dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại úy Nguyễn Minh Cảnh. 

2.- Khu trục hạm Trần Khánh Dư, HQ4, được trang bị: 02 hải pháo 76,2 ly; 03 trọng pháo 20 ly.

3.- Hộ tống hạm Nhật Tảo, HQ10, được trang bị: 01 hải pháo 76,2 ly; 02 hải pháo 40 ly; hệ thống chống tàu ngầm. 

NTT.- Còn lực lượng Hải Quân của Trung cộng xâm lăng Hoàng Sa thì như thế nào, thưa chị?

ĐML.- Kính thưa quý thính giả, lực lượng Hải Quân Trung cộng xâm lăng Hoàng Sa gồm có:

1.- Hai hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274. Hỏa lực mỗi chiến hạm gồm có 01 hải pháo 100 ly; 02 trọng pháo 37 ly. 

2.- Hai trục lôi hạm cải biến T43, số hiệu 389 và 396, được thiết kế dựa theo trục lôi hạm T43 của Liên Xô và được trang bị: 01 hải pháo 100 ly; 04 trọng pháo 37 ly. 

3.- Hai tàu đánh cá, số hiệu 402 và 407, được trang bị trọng pháo 25 ly. 

4.- Hai chiến hạm hộ tống loại Hainan 281 và 282 . Vũ khí trên mỗi chiến hạm gồm có: Hai hải pháo 57 ly đôi và hai trọng pháo 25 ly đôi; 4 dàn phóng rocket, mỗi dàn 05 ống phóng loại 81 (RBU-1200) gồm 50 rocket tầm xa 1.200m.

NTT.- Lực lượng Hải Quân của Trung cộng trội hơn lực lượng Hải Quân VNCH nhiều quá!

ĐML.- Thưa anh, lý do lực lượng hai bên chênh lệch quá nhiều là vì – như lúc nãy tôi đã trình bày – Lực lượng Hải Quân VNCH đã bị csVN chi phối rất nhiều khi csVN tạo ra những cuộc cường tập khốc liệt, tại miền Nam Việt Nam, trước khi cuộc hải chiến Hoàng Sa bùng nổ!

NTT.- Đúng là csVN “cõng rắn cắn gà nhà!”

ĐML.- Chứ còn “ai trồng khoai đất này”! Bây giờ, tôi xin nói về chi tiết của trận hải chiến đẩm máu tại Hoàng Sa. 

Kính thưa quý thính giả, những điều sắp trình bày hôm nay, tôi căn cứ vào Hồi Ký của Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc, Hải Sử tuyển tập, Hồi Ký của Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại và vài nhân chứng sống. Tôi cũng đọc bài viết về Hoàng Sa của vài tác giả khác nhau – trên internet; nhưng, thành thật xin lỗi, tôi không thể nhớ được tên tác giả!

Đại tá Ngạc là sĩ quan chỉ huy chiến thuật (OTC – Officer in Tactical Command) trận hải chiến Hoàng Sa. Đại tá Ngạc cũng là sĩ quan trực tiếp ra lệnh cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm của Hải Quân VNCH tại Hoàng Sa “khai hỏa”, để khởi đầu cuộc Hải Chiến bi hùng tại Hoàng Sa.


NTT.- Cuộc Hải Chiến bi hùng đó khởi đầu từ ngày nào và diễn tiến như thế nào, thưa chị?


ĐML.- Kính thưa quý thính giả, những diễn tiến đưa đến cuộc hải chiến đẫm máu tại Hoàng Sa khởi đầu từ: 


Ngày 11/01/1974.- Chỉ vài ngày sau khi ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung cộng, đột nhiên Ngoại trưởng Trung cộng tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa. Sau khi tuyên bố một cách vô căn cứ, Trung cộng đưa nhiều chiến hạm và tàu đánh cá – được trang bị vũ khí – xâm nhập hải phận Hoàng Sa.


Vì Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc đang bận công cán tại ngoại quốc, cho nên, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của VNCH bác bỏ luận cứ của Trung cộng.


Ngày 12/01/1974.- Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc cực lực bác bỏ luận điệu vô căn cứ và lên án hành động xâm lăng của Trung cộng; đồng thời Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cũng tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 


Ngày 15/01/1974.- Theo Hồi Ký của cựu phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải, thì: “...Vào ngày 15/01/1974, Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ16, Hạm Trưởng là Hải Quân trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa Địa Phương Quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên Khí Tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán Địa Phương Quân đã hết nhiệm kỳ ở Hoàng Sa. Chuyến hải hành này có hai sĩ quan Công Binh tháp tùng để nghiên cứu việc tu sửa hai cầu tàu tại Hoàng Sa; một người Mỹ tên Gerald Kosh cũng xin tháp tùng. Khi chiến hạm vừa khởi hành tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là một vài ghe đánh cá xuất hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin đó cho HQ16”. (Hết trích)


Trong thời gian này, Trung cộng đổ bộ/chiếm đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền. 


Sáng 16/01/1974.- Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ Tịch Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để lưu ý tình hình căng thẳng nghiêm trọng, có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh thế giới, bởi lời tuyên bố chủ quyền của Trung cộng.


Cũng thời điểm này, HQ16 đến Hoàng Sa. Trong khi tuần hành, HQ16 phát hiện trên đảo Quang Hòa có chòi canh, vọng gác cao, gắn cờ Trung cộng và một chiến hạm của Trung cộng đang di chuyển quanh đảo. HQ16 yêu cầu chiến hạm Trung cộng rời vùng lãnh hải của Việt Nam. Không có tín hiệu trả lời từ chiến hạm Trung cộng. HQ16 thấy 02 tàu nhỏ của Trung cộng ở gần bờ đảo Duy Mộng. 


Trưa 16/01/1974.- Bộ Tư Lệnh Hải Quân và Bộ Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển Hải Quân VNCH nhận được công điện của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ thông báo: Một hạm đội gồm 41 chiến hạm và 02 tiềm thủy đỉnh của Trung cộng đang tiến về Hoàng Sa.


Tại Hoàng Sa, HQ16 thấy một tàu lạ xuất hiện trong vùng. Trung úy Đào Dân – sĩ quan của HQ16 – ra lệnh gửi tín hiệu. Tàu lạ im lặng.  Hạm Trưởng HQ16 ra lệnh khai hỏa trọng pháo 20 ly, chỉ với mục đích đuổi tàu lạ ra khỏi vùng đảo, nhưng tàu lạ vẫn không phản ứng. HQ16 tiến gần đến tàu lạ thì nhận ra lá cờ Trung cộng. 


Sau đó, HQ 16 phát hiện – về hướng Tây Nam đảo Cam Tuyền – có hai tàu đánh cá Trung cộng, mang số 402 và 407.


HQ16 đưa 16 nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở 06 người trong đoàn Công Binh lên đảo, do thiếu tá Hồng chỉ huy. 


Trong khi chờ đoàn Công Binh trở lại chiến hạm, Hạm Trưởng HQ16 thấy trên đảo Quang Hòa bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, gần một dãy nhà đang xây cất dở dang. Hạm Trưởng HQ16 thông báo sự việc về Bộ Chỉ Huy. Bộ Chỉ Huy cho biết trên đảo này không có quân của VNCH.


HQ16 dùng cờ/loa phóng thanh tiếng Tàu, yêu cầu người Trung cộng rời khỏi hải phận Việt Nam. Im lặng. Một lúc lâu, nhóm người Trung cộng yêu cầu HQ16 rời vùng tranh chấp. 


Vừa khi đó, nhiều tàu đánh cá xuất hiện cạnh đảo Cam Tuyền và hằng trăm lá cờ Trung cộng cắm dọc bờ cát.


Trước tình hình nghiêm trọng như thế, Hạm Trưởng HQ16 báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, xin được tăng viện.


Hải Quân trung tá Vũ Hữu San được lệnh khẩn cấp đưa HQ4 ra Hoàng Sa.


Tối 16/01/1974.- HQ4 rời Đà Nẵng, tiến ra Hoàng Sa, đem theo một trung đội Biệt Hải do đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy.


Ngày 17/01/1974.- Chính phủ VNCH gửi công hàm đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đề nghị ban bố mọi biện pháp thích hợp để cải thiện tình hình.


09:00 giờ sáng 17/01/1974.- Từ Saigon, Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc đến Đà Nẵng. Khi đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải đại tá Ngạc được biết Tuần Dương Hạm Trần Bình Trong, HQ5, với biệt đội Hải Kích, cũng sẽ đến Đà Nẵng vào tối hôm đó.


Trưa 17/01/1974.- HQ4 đến Hoàng Sa, nhập đoàn với HQ16. Vừa nhập vùng, HQ4 từ phía Nam đảo Vĩnh Lạc (Money) chạy lên; HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống, kèm hai chiến hạm của Trung cộng vào giữa. Hạm Trưởng HQ4 ra lệnh dùng cờ/quang hiệu/loa phóng thanh tiếng Việt/tiếng Anh/tiếng Tàu để đuổi chiến hạm của Trung cộng ra khỏi lãnh hải của Việt Nam. Chiến hạm của Trung cộng cũng yêu cầu chiến hạm Việt Nam rời vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Trung cộng.


Không giải quyết được vấn đề một cách ôn hòa, Hạm Trưởng HQ4 cảnh báo rồi ra lệnh cho HQ4 bẻ lái, “ủi” thẳng vào chiến hạm ngụy trang tàu đánh cá 407 của Trung cộng, với mục đích đẩy chiến hạm ngụy trang của Trung cộng ra xa đảo.


Trước thái độ quyết liệt của HQ4, chiến hạm Trung cộng ngụy trang 407 và một chiến hạm khác của Trung cộng, gần đó, bỏ chạy về phía Nam của đảo Duy Mộng và đảo Quang Hòa.


Sau khi đuổi hai chiến hạm Trung cộng, HQ4 cho toán Người Nhái đổ bộ lên đảo Vĩnh Lạc dẹp cờ Trung cộng, cắm Quốc Kỳ VNCH.


Thượng sĩ giám lộ Lý Công Bảy trên HQ4 kể lại: “Toán Biệt Hải đổ bộ lên đảo không phát hiện được gì ngoài vài nấm mộ mới đắp, chỉ có bảng gỗ đóng trước mộ, ghi chữ Tàu với ngày sinh/ngày chết từ rất lâu. Toán Biệt Hải được lệnh đào lên vài nấm mộ để giảo nghiệm; nhưng không thấy gì cả. Đây là mộ ngụy tạo”!


03:00 giờ chiều 17/01/1974.- HQ16 đến đảo Cam Tuyền, án ngữ phía Đông Nam để yễm trợ cho HQ4 đổ bộ 27 Biệt Hải lên phía Tây đảo Cam Tuyền, trong khi 02 chiến hạm 402 và 407 của Trung cộng đang ở phía Nam đảo Cam Tuyền.


Sau đó, HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu – do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy – lên đảo Cam Tuyền.


NTT.- Tình hình găng quá! 


ĐML.- Vâng! Còn nhiều chi tiết rất bi hùng, kính mời quý thính giả theo dõi.


06:00 giờ chiều 17/01/1974.- HQ4 phát hiện hai chiến hạm Kronstadt 271, 274 của Trung cộng từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 dùng quang hiệu yêu cầu 02 chiến hạm Kronstadt 271, 274 rời hải phận của Việt Nam. Hai chiến hạm 271 và 274 cũng dùng quang hiệu, đáp rằng các đảo này thuộc chủ quyền của Trung cộng, yêu cầu chiến hạm VNCH rút lui.


Không thấy HQ4 rút lui, hai chiến hạm Kronstadt 271, 274 chạy quanh HQ4. Một trong hai chiếc Kronstadt chận đầu HQ4!


08:00 giờ tối 17/01/1974.- Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, rời hải cảng Tiên Sa, trực chỉ Hoàng Sa.


09:00 giờ tối 17/01/1974.- HQ5 cũng rời Đà Nẵng, hải hành ra Hoàng Sa.


Trung cộng tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của Trung cộng tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. HQ4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam Cộng Hòa. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!” Trung cộng đáp rằnh Hoàng Sa là của Trung cộng.


04:30 giờ sáng 18/01/1974, một trong 04 chiến hạm của Trung cộng tiến về HQ4. Nhưng, khi HQ4 tiến sát chiến hạm của Trung cộng thì chiến hạm của Trung cộng chuyển hướng về đảo Quang Hòa.


Sáng 18/01/1974, theo cựu sĩ quan Hải Quân Trần Đỗ Cẩm: “HQ16 quay lại đảo Hữu Nhật, thấy hai chiến hạm của Trung cộng vẫn còn đó. Gần đảo Money cũng có chiến hạm của Trung cộng với hằng trăm lá cờ Trung cộng cắm rải rác dọc bãi cát.” Hạm trưởng HQ16 báo cáo sự việc về Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải.


Nhận được báo cáo của HQ16, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh HQ16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Vĩnh Lạc để triệt hạ cờ Trung cộng.


Hạm Trưởng HQ16 cho một trung úy và 14 đoàn viên – được trang bị M79 và súng cá nhân – đổ bộ bằng xuồng cao su với mục đích nhổ hết cờ Trung cộng, cắm cờ VNCH.


08:45 giờ sáng 18/01/1974, HQ16 phát hiện thêm một chiến hạm của Trung cộng di chuyển về hướng Đông Nam đảo Duy Mộng; trên đảo đã thấy cờ của Trung cộng.


10:30 giờ sáng 18/01/1974, trong khi HQ4 rút Biệt Hải trở về chiến hạm thì chiến hạm 407 của Trung cộng tiến về HQ16.


03:00 giờ chiều 18/01/1974, HQ5 và đại tá Ngạc đến Hoàng Sa.


Sau đó không lâu, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, cũng đến Hoàng Sa.


Đại tá Ngạc chia Hải Đoàn Đặc Nhiệm thành hai Phân Đoàn Đặc Nhiệm:


*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm I gồm có Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư, HQ4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng, HQ5; do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy.


Đại tá Hà Văn Ngạc trực tiếp chỉ huy từ HQ5.


*.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm II gồm có Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, HQ16 và Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10; do Hạm Trưởng HQ16 chỉ huy.


Nhóm quân nhân thuộc HQ16 và HQ4 đổ bộ và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng (Drummond).


Từ phía Nam đảo Hoàng Sa, 02 phân Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa theo thứ tự: HQ4, HQ5, HQ16 và HQ10.


Khi 02 Hải Đoàn Đặc Nhiệm tiến về đảo Quang Hòa để Hải Kích đổ bộ thì bị hai chiến hạm Kronstadt 271 và 274 của Trung cộng chận hướng hải hành. Hai Phân Đoàn Đặc Nhiệm vẫn giữ nguyên tốc độ. Hai chiến hạm 389 và 396 của Trung cộng vẫn giữ nguyên vị trí sát bờ bắc đảo Quang Hòa.


Chiếc Kronstadt 271 dùng quang hiệu chuyển công điện: “These islands belong to the People Republic of China since Ming dynasty STOP Nobody can deny”. Hải Đoàn Đặc Nhiệm đáp bằng quang hiệu: “Please leave our territorial water immediately!”


07:15 giờ chiều 18/01/1974, HQ5 phát hiện hai chiến hạm 389 và 396 của Trung cộng.


08:00 giờ tối 18/01/1974, HQ16 chuyển phái đoàn Công Binh, do thiếu tá Hồng hướng dẫn, sang HQ5 bằng xuồng. Phái đoàn Công Binh cùng ông Gerald  Kosh – thuộc cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng – vào gặp đại tá Ngạc.

10:00 giờ tối 18/01/1974, đại tá Ngạc liên lạc vô tuyến với bốn Hạm Trưởng để thông báo tình hình quân sự rất phức tạp trong vùng, yêu cầu bốn vị Hạm Trưởng chuẩn bị chiến hạm và huy động tinh thần nhân viên, sẵn sàng chiến đấu.


11:00 giờ đêm 18/01/1974, lệnh hành quân từ Vùng I Duyên Hải được chuyển mã hóa trên băng tần SSB – single side band – ghi rõ: “Tái chiếm một cách ôn hòa đảo Quang Hòa”.


NTT.- Lực lượng Hải Quân của Trung cộng vượt xa lực lượng Hải Quân VNCH thì làm thế nào Hải Quân VNCH có thể tái chiếm đảo Quang Hòa một cách ôn hòa được?


ĐML.- Nhận xét của anh rất chính xác! Nhưng, chính người csVN đã âm thầm hậu thuẫn Trung cộng bằng những cuộc tấn công tàn bạo vào miền Nam Việt Nam ngay trước khi Trung cộng tiến chiếm Hoàng Sa thì làm thế nào Hải Quân VNCH có thể bảo vệ được lãnh hải khi mà Hoa Kỳ không còn viện trợ vũ khí và quân dụng cho VNCH nữa?


Tình trạng bi đác cho đến nỗi Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, khi rời hải cảng Tiên Sa để trực chỉ Hoàng Sa thì một máy chính của HQ10 không xử dụng được, rada bị trục trặc, hỏa lực đối hạm phải chỉnh bằng tay!


NTT.- Quả là một cuộc hải chiến hào hùng nhưng đầy bi thảm! Theo tài liệu chị đã trình bày, tôi đồng ý rằng: Sự bi thảm này có sự “góp sức” rất đắc lực của người csVN. Đó là điều rất đáng buồn! Nhưng thôi, chúng ta chỉ biết nói lên sự thật của lịch sử để các thế hệ trẻ biết được rằng VNCH đã thật sự đánh đuổi quân ngoại xâm Trung cộng. Mời chị trình bày tiếp.


ĐML.- Khuya 18/01/1974, HQ10, HQ4, HQ5 và HQ16 chuẩn bị tác chiến. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh làm tối HQ10 để tránh bị theo dõi.


02:00 giờ sáng 19-01-1974.- Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà triệu tập cuộc họp khẩn cấp và chỉ thị: Tất cả chuẩn bị tác chiến để bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc.


06:00 giờ sáng 19/01/1974.- Phân Đoàn Đặc Nhiệm I có mặt tại Tây Nam đảo Quang Hòa, rồi tiến sát đảo Quang Hòa. HQ5 nằm gần bờ hơn để thuận tiện cho Hải Kích đổ bộ.


Hai chiến hạm của Trung cộng – Kronstadt 271 và 274 – bị bất ngờ, vận chuyển một cách lúng túng, luồn ra khỏi khu lòng chảo.


Trong lúc Biệt Đội Hải Kích xuống xuồng cao-su để đổ bộ, đại tá Ngạc đích thân đến cầu thang căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà không được nổ súng. Khi bắt được liên lạc với quân của Trung cộng, hãy yêu cầu họ rời khỏi đảo.


Theo báo cáo của Chỉ Huy Trưởng Biệt Đội Hải Kích – Hải Quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh – Hải Kích Đỗ Văn Long là người đầu tiên đổ bộ lên đảo; vừa nổ súng vừa tiến vào bờ, liền bị hỏa lực từ trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển.


Trung úy Lê Văn Đơn – xuất thân từ Bộ Binh – tiến vào để thu hồi tử thi của Hải Kích Đỗ Văn Long cũng bị tử thương ngay gần xuồng. Tử thi của trung úy Đơn được thu hồi ngay.


7:00 giờ sáng 19/01/1974.- Sau khi quan sát tình hình chiến trận một lần nữa, Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà dăn dò các pháo thủ phải cố gắng bắn chính xác ngay loạt đạn đầu tiên để phá vỡ lợi thế của đối phương.


HQ5 đổ bộ 22 Hải Kích lên bờ Tây Nam. HQ4 đổ bộ 27 Biệt Hải lên bờ Nam để tái chiếm đảo Quang Hòa.


Cả 02 cuộc đổ bộ đều thất bại trước hỏa lực quá mạnh của Trung cộng!


Cũng thời điểm này, hai chiến hạm 402 và 407 của Trung cộng tăng cường khoảng 02 đại đội lên bờ Đông Bắc đảo Quang Hòa.


8:50 giờ sáng 19/01/1974.- Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải chỉ thị đại tá Ngạc cho tấn công tối đa vào các đảo; phải dùng mọi khả năng để chống trả


9:30 giờ sáng 19/01/1974.- đích thân Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải ra lệnh “khai hỏa”, bằng bạch văn, qua siêu tần số SSB, cho đại tá Ngạc.


10 giờ sáng 19/01/1974.- Biệt đội Hải Kích trở về HQ5 với tử thi của trung úy Lê Văn Đơn. 


Đại tá Ngạc chỉ thị mỗi chiến hạm của VNCH tấn công một chiến hạm địch và bám sát địch trong tầm hải pháo 40 ly. Tất cả chiến hạm của Hải Quân VNCH phải đồng loạt khai hỏa theo lệnh của đại tá Ngạc để tạo yếu tố bất ngờ và gây thiệt hại trước cho các chiến hạm của Trung cộng.


Vì tầm quan sát – từ HQ5 – rất hạn chế, đại tá Ngạc không thể quan sát được những biến động của HQ4/HQ16/HQ10 cũng như các chiến hạm và hai ngư thuyền ngụy trang của Trung cộng.


10 giờ 24 sáng 19/01/1974.- Hải Quân đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh “khai hỏa”! 


Vào thời điểm bi hùng đó, Hải Quân trung úy Phạm Ngọc Roa đang trực chiến tại đài ra-đa của HQ4. Trung úy Roa thấy Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, khai hỏa trước tiên. Tiếp theo, cả bốn chiến hạm của Hải Quân VNCH đồng loạt nổ súng. 


Sau đó, cũng chính trung úy Phạm Ngọc Roa thấy đài chỉ huy của Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, lóe sáng vì bị trúng đạn! 


Đài chỉ huy HQ4 cũng bị trúng đạn. Trung úy Roa bị thương. HQ4 bị trúng gần 70 phát đạn. Hai quân nhân tử thương. Nhiều quân nhân bị thương.


Chiếc Kronstadt 271 bị trúng đạn, vận chuyển rất chậm, trở thành mục tiêu của HQ5. Hỏa lực của Kronstadt 271 không gây thiệt hại nhiều cho HQ5; nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho HQ10 nằm về phía Bắc. 


HQ4 nằm về phía Tây Nam của HQ5 đặt mục tiêu là Kronstadt 274 nằm về phía Bắc. Nhưng, chẳng may, HQ4 bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên, phải chờ sửa chữa. Tuy nhiên, HQ4 vẫn phải tiếp tục bám sát Krondstadt 274, cho nên, HQ4 bị thiệt hại nặng bởi hỏa lực của Kronstadt 274. 


Tại đài chỉ huy của HQ5, máy truyền tin PRC-25 để đại tá Ngạc chỉ huy và liên lạc với các chiến hạm trực thuộc, được đặt trước ghế Hạm Trưởng. Đại tá Ngạc vừa bước ra ngoài quan sát thì đài chỉ huy bị trúng đạn; máy PRC- 25 nát tan!


10:39 giờ sáng 19/01/1974.- HQ16 báo cáo hầm máy bị trúng đạn, chiến hạm bị nghiêng, khả năng vận chuyển giảm, buộc phải lui ra khỏi vòng chiến; cũng không còn liên lạc được với HQ10; không biết rõ tình trạng, chỉ thấy nhân viên HQ10 đang đào thoát. 


Đại tá Ngạc ra lệnh cho HQ4 lui ra khỏi vòng chiến ngay; HQ5 yểm trợ cho HQ4 tiến ra xa. 


Chiếc Kronstadt 274 của Trung cộng tấn công HQ5 với mục đích tiếp cứu chiếc Krondstadt 271 đang bị tê liệt. 


HQ5 bị trúng đạn. Sĩ quan trưởng khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bất khiển dụng. Máy siêu tần số SSB không còn liên lạc được. Khẩu hải pháo 40 ly đơn phía tả hạm cũng bị hư hại. 


11:25 giờ sáng 19/01/1974.- Cách xa khoảng 8 đến 10 hải lý, về phía Đông, xuất hiện một chiến hạm của Trung cộng, loại được trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại hải hải, đang tiến vào vùng giao tranh với tốc độ cao, quan sát được bằng viễn vọng kính. 


Đại tá Ngạc ra lệnh HQ4 và HQ5 rời vùng Hoàng Sa, tiến về hướng Subic Bay. 


01:00 giờ trưa 19/01/1974.- HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng Sa khoảng 10 hải lý. Tư Lệnh Hải Quân đích thân ra lệnh cho HQ4 và HQ5 phải trở lại Hoàng Sa, đánh chìm chiến hạm của Trung cộng. 


Lệnh được thi hành ngay. 


Từ HQ5, đại tá Ngạc được thông báo rằng HQ16 đã được HQ6, hộ tống về Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng. 


2:30 giờ chiều 19-01-1974, HQ4 và HQ5 đang hải hành trở lại Hoàng Sa. Ngang Hòn Tri Tôn – cách Hoàng Sa khoảng 01 giờ rưỡi hải hành – HQ4 và HQ5 nhận được phản lệnh, phải trở về Đà Nẵng. 


07:00 giờ sáng 20-01-1974, HQ4 và HQ5 về tới Căn Cứ Hải Quân Đà Nẵng. 


Theo trung sĩ Trịnh Văn Quý – thuộc lực lượng đổ bộ lên đảo Hữu Nhật – khoảng 08 giờ sáng 20/01/1974 trung sĩ Trịnh Văn Quý vẫn thấy từng cụm khói nhỏ vươn lên từ đài chỉ huy của HQ10 trong khi phần cuối cùng của Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, vẫn từ từ chìm vào lòng Biển Mẹ!


NTT .- Một hình ảnh thật là bi hùng!


Kính thưa quý thính giả, chương trình Tưởng Niệm 50 năm Hải Chiến Hoàng Sa – do Diễn Đàn KBC của Nguyễn Tường Tuấn thực hiện – đến đây xin tạm ngưng. Xin hẹn cùng quý thính giả vào một chương trình khác.


Kính chào.